Một Số Điểm Mới Luật Giao Dịch Điện Tử Ở Việt Nam

By August 16, 2024 Blog in English No Comments

Luật Giao dịch điện tử mới được ban hành ngày 22 tháng 6 năm 2023 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2024, được kỳ vọng sẽ là bước tiến đáng kể hướng tới việc thúc đẩy và chuẩn hóa các giao dịch điện tử tại Việt Nam. 

Luật mới, được cấu trúc thành bảy chương với 54 điều, nhằm khắc phục những vướng mắc của Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Cụ thể là việc hạn chế một số lĩnh vực áp dụng giao dịch điện tử trong Luật có thể gây cản trở ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong những lĩnh vực này. Bên cạnh những sửa đổi về phạm vi điều chỉnh, quản lý nhà nước về giao dịch điện tử và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử, Luật mới tập trung vào việc công nhận pháp lý chữ ký điện tử, hiệu lực của thông điệp dữ liệu và việc ký kết, thực hiện hợp đồng điện tử. 

giao dịch điện tử

Phạm vi điều chỉnh của luật mới 

Đáng chú ý, Điều 1 của Luật quy định phạm vi điều chỉnh chung, bao gồm tất cả các giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử. Tuy nhiên, Luật không quy định nội dung, hình thức và điều kiện của giao dịch cũng như không điều chỉnh các giao dịch không được phép thực hiện qua phương tiện điện tử và trong trường hợp đó, các luật chuyên ngành có liên quan sẽ được áp dụng. 

So với Luật cũ năm 2005, phạm vi của luật mới sẽ rộng hơn. Theo ông Hùng – Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (MIG), Luật Giao dịch điện tử 2005 từng hạn chế phạm vi áp dụng, không bao gồm các giao dịch liên quan đến bất động sản, thừa kế, hôn nhân, giấy tờ có giá. Tuy nhiên, luật sửa đổi đã mở rộng đáng kể phạm vi này, cho phép áp dụng giao dịch điện tử vào hầu hết các hoạt động trong đời sống. Ông Hùng giải thích rằng sự thay đổi này dựa trên sự phát triển vượt bậc của công nghệ số và nhu cầu ngày càng cao về các dịch vụ trực tuyến. 

Thông điệp dữ liệu 

Luật mới dành hẳn một chương để quy định về thông điệp dữ liệu, nhấn mạnh rằng “thông tin nêu trong thông điệp dữ liệu không thể bị từ chối tính hợp pháp chỉ vì lý do thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu”. Hơn nữa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng thông điệp dữ liệu trong giao dịch điện tử, Luật quy định các điều kiện để thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản viết hoặc văn bản gốc và các yêu cầu về việc chuyển đổi thông điệp dữ liệu thành văn bản giấy và ngược lại.     

Chữ ký điện tử 

chữ ký điện tử

Luật mới vẫn kế thừa định nghĩa về chữ ký điện tử của Luật 2005. Tuy nhiên, điểm mới là chữ ký điện tử  được phân loại dựa trên mục đích của chúng như sau: 

– Chữ ký điện tử chuyên dùng là chữ ký điện tử do cơ quan, tổ chức tạo lập, sử dụng riêng cho hoạt động của cơ quan, tổ chức đó phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; 

– Chữ ký số công cộng là chữ ký số được sử dụng trong hoạt động công cộng và được bảo đảm bởi chứng thư chữ ký số công cộng; 

– Chữ ký số chuyên dùng công vụ là chữ ký số được sử dụng trong hoạt động công vụ và được bảo đảm bởi chứng thư chữ ký số chuyên dùng công vụ. 

Ngoài ra, mỗi phân loại sẽ phải tuân theo các điều kiện riêng để đảm bảo tính xác thực. Đáng chú ý, theo Luật mới, các hình thức xác định người ký khác bằng phương tiện điện tử như chèn hình ảnh chữ ký viết tay hoặc sử dụng chữ ký được quét, chữ ký mật khẩu một lần (OTP) và chữ ký tin nhắn văn bản (SMS) không được coi là chữ ký điện tử. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tế, Luật có đề cập đến việc sử dụng các hình thức này, nói rằng sẽ tuân thủ các luật chuyên ngành có liên quan.   

Tin tốt cho các doanh nghiệp là Luật mới công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử nước ngoài và chứng thư số điện tử nước ngoài nhằm giúp giảm chi phí giao dịch xuyên biên giới cho doanh nghiệp cũng như thúc đẩy giao dịch điện tử quốc tế.  

Hợp đồng điện tử 

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử, Luật quy định rõ trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có thể thỏa thuận với nhau về việc sử dụng thông điệp dữ liệu hoặc phương tiện điện tử cũng như về các yêu cầu và điều kiện kỹ thuật để đảm bảo tính toàn vẹn và bảo mật của hợp đồng điện tử. Cần lưu ý rằng, một số ngành cần tuân theo các yêu cầu pháp lý bổ sung liên quan đến hợp đồng điện tử. Trong khi MIG sẽ là cơ quan quản lý nhà nước về chứng nhận hợp đồng điện tử, các Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ khác có trách nhiệm ban hành các quy định về ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong các lĩnh vực thuộc phạm vi của Bộ mình. 

Theo Điều 6, các hành vi bị nghiêm cấm trong giao dịch điện tử bao gồm:  

  1. Lợi dụng giao dịch điện tử xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
  2. Cản trở hoặc ngăn chặn trái pháp luật quá trình tạo ra, gửi, nhận, lưu trữ thông điệp dữ liệu hoặc có hành vi khác nhằm phá hoại hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử.
  3. Thu thập, cung cấp, sử dụng, tiết lộ, hiển thị, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông điệp dữ liệu.
  4. Giả mạo, làm sai lệch hoặc xóa, hủy, sao chép, di chuyển trái pháp luật một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu.
  5. Tạo ra thông điệp dữ liệu nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật.
  6. Gian lận, giả mạo, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái pháp luật tài khoản giao dịch điện tử, chứng thư điện tử, chứng thư chữ ký điện tử, chữ ký điện tử.
  7. Cản trở việc lựa chọn thực hiện giao dịch điện tử.
  8. Hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của luật.